Nếu bạn là một Phật tử hoặc đang tìm hiểu Phật giáo thì có lẽ bạn cũng đã nghe về khái niệm nghiệp. Vậy nghiệp là gì? Nó có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của chúng ta hay không? Bài viết này sẽ giải đáp tất cả mọi thắc mắc trên.
Nghiệp là gì?
Nghiệp (Karma) là một biểu hiện cụ thể của luật nhân quả tự nhiên vận hành khắp cả vũ trụ. Nghiệp được hình thành chỉ khi đạt đủ hai điều kiện là: có một cá nhân có chủ ý và họ thực hiện một hành vi cụ thể. Do đó các tiến trình nhân quả tự nhiên vận hành trong vũ trụ không thể gọi là nghiệp nếu không gắn liền với một cá nhân thực hiện.
Nghiệp là luật nghiệp báo nhân quả chi phối mọi hành động của con người. Luật này giải thích vì sao những cảm giác đau đớn và khổ sở lại sinh khởi như là kết quả của các hành động, ý nghĩ và cách ứng xử xấu xa (bất thiện), và vì sao những cảm xúc thích ý như là vui vẻ, hạnh phúc lại sinh khởi như là kết quả của những nhân duyên tương ứng – nghĩa là các hành vi, cảm xúc và ý nghĩ tốt đẹp (thiện).
Nghiệp có mấy loại?
Trong phạm vi tổng quát của các hành vi tạo nghiệp, ta có thể ra thành ba loại nghiệp khác nhau dựa theo kết quả tương ứng:
- Thiện nghiệp: Các hành vi tạo ra khổ đau nói chung được xem là những hành vi tiêu cực hay hành vi bất thiện.
- Bất thiện nghiệp (ác nghiệp): Những hành vi dẫn đến các kết quả tích cực và đáng mong muốn, chẳng hạn như là những kinh nghiệp vui thích và hạnh phúc, được xem là các hành vi tích cực hay hành vi thiện.
- Vô ký nghiệp: Loại này bao gồm những hành vi dẫn tới sự thản nhiên, hay các cảm xúc và kinh nghiệm trung tính, chúng được xem là những hành vi trung tính, không phải hành vi thiện cũng không phải hành vi bất thiện.
Những hành vi tạo nghiệp thường được phân ra thành những hành vi tạo nghiệp là thuần thiện hay bất thiện, và những hành vi pha lẫn cả thiện và bất thiện.
Con người tạo nghiệp như thế nào?
Con người chúng ta thường tạo nghiệp thông qua hai loại hành vi chính yếu:
- Hành vi tinh thần: là các hành vi không nhất thiết được biểu lộ thành hành động cụ thể (ý tưởng).
- Hành vi vật thể: bao gồm các hành vi được thực hiện bằng thân thể (hành động) và bằng miệng (lời nói).
Trong Phật giáo những hành vi tạo nghiệp trên còn được gọi thân (thân nghiệp), khẩu (khẩu nghiệp), ý (ý nghiệp).
Cách phân biệt nghiệp nặng, nghiệp nhẹ
Nếu phân tích riêng rẽ một hành vi tạo nghiệp ta có thể thấy được nhiều giai đoạn trong hành vi ấy: giai đoạn khởi đầu là giai đoạn phát khởi động lực hay chủ ý, giai đoạn thực sự diễn ra hành vi, giai đoạn đỉnh điểm hay sự hoàn tất hành vi. Và cường độ và tác động của một hành vi tạo nghiệp sẽ biến đổi tuỳ theo cách thức diễn ra của mỗi giai đoạn này.
Hãy lấy ví dụ về một hành vi bất thiện. Nếu trong giai đoạn phát khởi động lực, người thực hiện hành vi đó có một cảm xúc tiêu cực rất mạnh, chẳng hạn như là giận dữ, và rồi ta hành động trong cơn bốc đồng, thực hiện hành vi ấy, nhưng sau đó liền cảm thấy hối tiếc sâu sắc về hành vi vừa làm, thì cả ba giai đoạn nói trên sẽ không hoàn tất trọn vẹn. Kết quả là hành vi bất thiện đó sẽ có tác động kém hơn so với trường hợp thực hiện trọn vẹn trong mọi giai đoạn – với một động lực mạnh mẽ, hành vi thực sự được thực hiện và một cảm giác thoả mãn về hành vi đã làm.
Tương tự, có những trường hợp mà người ta có động cơ rất yếu ớt nhưng do tình thế bắt buộc phải thực hiện hành vi. Trong trường hợp này, mặc dù hành vi bất thiện đã thực hiện nhưng nó tác động thậm chí còn kém hơn so với trường hợp đầu tiên, vì không có một động lực mạnh mẽ. Vì thế, tuỳ theo cường độ của động lực thúc đẩy hành vi, của hành vi thực sự diễn ra, và của sự hoàn tất hành vi mà nghiệp lực được tạo ra sẽ có những mức độ tương ứng.
Dựa trên những khác biệt cơ bản này, trong kinh sách có nói đến bốn loại hành vi:
- Hành vi được thực hiện nhưng không tạo nghiệp: tức những hành vi được thực hiện không có chủ ý, vì thế không tạo thành nghiệp.
- Hành vi có tạo nghiệp nhưng không được thực hiện: tức các hành vi tinh thần (ví dụ: lên kế hoạch trộm cướp nhưng không thực hiện được).
- Hành vi được thực hiện và tạo thành nghiệp: gồm cả hành vi thiện nghiệp và bất thiện nghiệp.
- Hành vi không được thực hiện cũng không tạo thành nghiệp: tức các hành vi tinh thần không được thực hiện.
Như vậy để phân biệt một hành vi là tạo ra nghiệp nặng hay nhẹ thì cần phải xét đến các yếu tố như: hành động đó có chủ ý hay không, động cơ thực hiện có mạnh mẽ không và sau khi thực hiện xong thì có cảm thấy thoả mãn, hài lòng không.
Làm sao để giảm nghiệp?
Mặc dù tất cả chúng ta đều không mong muốn gây ác nghiệp, tuy nhiên đôi khi vì không hiểu biết hoặc không còn lựa chọn nên bắt buộc chúng ta phải thực hiện những hành vi tội lỗi đó. Chính vì vậy chúng ta cần phải biết cách để làm giảm mức độ nghiêm trọng của nghiệp ác đó. Dưới đây là một vài gợi ý có thể giúp bạn.
- Giữ cho động cơ thúc đẩy không thực sự mạnh mẽ.
- Giữ cho cảm xúc luôn ở mức thấp nhất khi thực hiện.
- Thể hiện sự dằn vặt lương tâm mạnh mẽ khi thực hiện.
- Khi hành vi thực hiện xong phải có cảm giác ân hận, hối tiếc sâu sắc.
- Không nên có cảm giác vui sướng hay thoả mãn.
10 hành vi tạo ác nghiệp cần tránh
Mặc dù có nhiều loại hành vi tạo ác nghiệp khác nhau nhưng trong Phật giáo được gói gọn thành mười hành vi gọi là Thập ác nghiệp. Trong đó, có ba hành vi thuộc về thân là: giết hại, trộm cắp, tà dâm; bốn hành vi thuộc về lời nói là: nói dối, nói lời chia rẻ, nói lời ác nghiệp, nói lời thêu dệt; ba hành vi thuộc về ý là: tham lam, sân hận, si mê.
Theo cách lý tưởng nhất thì chúng ta nên tránh xa mười điều bất thiện trên, hoặc nếu không thể thì cũng phải cố gắng hết sức để hạn chế tối đa những điều bất thiện.
Tổng kết
Qua bài viết này chúng ta đã hiểu được nghiệp là một yếu tố thuộc về nhân quả được tạo ra bởi một cá nhân thông qua một hành vi cụ thể. Tính chất nặng hay nhẹ của nghiệp sẽ dựa vào việc thực hiện hành vi như: có chủ ý hay không, động lực thực hiện có mạnh hay không và mức độ thoả mãn sau khi thực hiện là như thế nào.
Bởi vì nghiệp sẽ luôn tác động vào đời sống của chúng ta nên khi đã nhận thức được thì chúng ta nên chỉ tạo những thiện nghiệp và tránh tất cả ác nghiệp. Và nếu nhận ra mình đang trong trạng thái thực hiện một hành vi tạo ác nghiệp thì cũng phải cố gắng làm giảm bớt mức độ nghiêm trọng của hành vi đó, chứ đừng để nó diễn ra một cách tự nhiên.
Bài viết liên quan
Tứ Diệu Đế: 4 chân lý cao quý của Phật giáo.
Phiền não là gì? 30 loại phiền não phổ biến
11 Tâm Sở Thiện – Nền Tảng Cho Hạnh Phúc
Vị Phật đầu tiên ở Việt Nam là ai?