Trang chủ » Phật giáo » Kinh Kim Cang » Kinh Kim Cang: Phần giới thiệu

Kinh Kim Cang: Phần giới thiệu

Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chũ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc dịch ra chữ Hán.

Lời nói đầu

Trí tuệ Bát-nhã thấy đúng lý Trung đạo, không mắc kẹt ở hai bên có và không. Vì biết rõ vạn vật đều do nhân duyên sanh nên không có chủ thể thì làm gì thật có được, đủ duyên vạn vật sanh thì làm sao nói không thật?

Như kinh nói “chúng sanh không phải chúng sanh, ấy gọi là chúng sanh… Thế giới không phải là thế giới, ấy gọi là thế giới…“. “Không phải chúng sanh” vì duyên hợp không có chủ thể, “gọi là chúng sanh” vì giả tướng giả danh hiện tiền làm sao phủ nhận được. To như thế giới cũng là duyên hợp không chủ thể, nên nói “không phải thế giới“, nhưng chúng sanh đang sống nương nhờ trên thế giới thì giả tướng thế giới làm sao chối bỏ được, nên nói “gọi là thế giới“. Thế mà, có một số người học Phật nông nổi nói: “Bát-nhã chấp không“, quả thật họ là người rất đáng thương, học Phật mà hoảng sợ trí tuệ thì bao giờ được giác ngộ.

Bát-nhã có công dụng, có khả năng phá sạch mọi kiến chấp. Người học Phật cần yếu phải nhờ nó để dẹp tan tất cả kiến chấp sai lầm cố hữu (vô minh), đã lôi kéo mình vào vòng trầm luân muôn vạn kiếp rồi. Nếu không tận dụng cây kiếm Bát-nhã chặt đứt mọi xiềng xích kiến chấp, chúng ta khó mong thoát khỏi luân hồi. Diệu dụng kinh Kim Cang là ở đây vậy.

Đọc toàn quyển kinh Kim Cang chúng ta thấy Phật phá sạch không còn sót một kiến chấp nào. Đây là quả bom, là khối chất nổ mạnh làm nổ tung hai ngọn núi kiến chấp của chúng sanh. Có một số người bảo rằng “Tụng kinh Kim Cang nóng“, họ sợ tụng kinh Kim Cang vì không chịu nổi sức công phá khốc liệt của kinh này. Ngược lại, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn khuyên người tu thiền nên tụng kinh Kim Cang và chính Ngài cũng đem kinh Kim Cang giảng cho Lục tổ Huệ Năng nghe, nhân đó Lục tổ ngộ đạo.

Chúng tôi giảng kinh Kim Cang tại Thiền viện Thường Chiếu và các thiền sinh ghi ra từ băng nhựa. Đọc qua bản ghi xong, chúng tôi đồng ý cho in ra để được nhiều người xem. Tuy nhiên, không sao tránh khỏi vài điều sơ sót, xin quý vị cảm thông cho.” – Thích Thanh Từ, viết tại Thiền viện Thường Chiếu vào mùa An cư năm 1992.

Sự liên hệ giữa kinh Kim Cang và Thiền tông

Dĩ nhiên ai cũng biết đức Lục tổ khi gánh củi vào khách điếm bán, thấy có người đang tụng kinh Kim Cang, đức Lục tổ nghe qua, tâm liền khai ngộ, mới hỏi thăm và được biết là Ngũ tổ Hoàng Mai Hoằng Nhẫn dạy đồ đệ trì tụng “Kim Cang”, do đó Ngài tìm đến học đạo.

Trong Thiền tông lúc Tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma) truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả, Tổ trao bốn quyển kinh Lăng-già (Lankà) để làm tâm ấn. Đến đời Ngũ tổ, thấy Kim Cang là quyển kinh tối yếu trong nhà Thiền, Ngài dạy: “Chẳng những Tăng Ni mà cả cư sĩ đều nên trì tung kinh Kim Cang“. Ngũ tổ chủ trương dùng kinh Kim Cang để ấn tâm, thế nên khi Lục tổ đến học, vào trước giờ truyền y bát, Ngài đem kinh Kim Cang ra giảng. Khi giảng đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm“, Lục tổ hoàn toàn liễu ngộ. Như vậy Lục tổ ngộ đạo và được truyền y bát làm Tổ cũng nhân kinh Kim Cang. Do đó chúng ta thấy rõ tầm quan trọng của kinh này đối với Thiền tông. Sau này kinh Kim Cang được xem như tâm ấn trong nhà Thiền. Trong các chùa, các Thiền viện bộ kinh này được xem như kinh Nhật Tụng.

Ngài Khuê Phong cũng bảo: Kim Cang là bộ kinh quí đáng để ấn tâm.

Học kinh Kim Cang là học thẳng vào phương pháp tu Thiền.

Giới thiệu về kinh Kim Cang

Bài giảng này là y theo bản dịch của ngài Tam tạng pháp sư Cưu-ma-la-thập, vì bản này được công nhận là văn chương lưu loát và sâu sắc hơn hết. Nếu xem lại bản của ngài Nghĩa Tịnh cũng như của ngài Huyền Trang, chúng ta thấy cả hai bản dịch đều nặng về văn nghĩa. Ngài La-thập không kẹp trong văn nghĩa, chỉ cốt làm sao cho ta nhận được lời Phật dạy, ý Phật nói, nên văn dịch của Ngài thâm thuý và gẫy gọn dễ hiểu.

Thái tử Chiêu Minh đời Lương, khi đọc Kim Cang lãnh hội được ý chỉ nên chia quyển kinh làm ba mươi hai phần để cho người đọc dễ nhận hiểu.

Giải nghĩa đề kinh: Kim cang Bát-nhã Ba-la-mât:

  • Kim Cang là một chất cứng hay phá các thứ khác mà các kim loại khác không phá được nó.
  • Bát-nhã là âm theo tiếng Phạn, nghĩa là trí tuệ.
  • Ba-la-mât là âm theo tiếng Phạn, nghĩa là đến bờ kia hoặc cứu kính viên mãn.
  • Kinh là chữ Hán.

Đề kinh gồm cả chữ Hán lẫn chữ Phạn. Người Trung Hoa khi dịch kinh, chữ nào dịch được thì dịch, chữ nào không thể dịch hết nghĩa thì để nguyên âm tiếng Phạn.

Trí tuê được cứu kính viên mãn gọi là Bát-nhã ba-la-mật, vì nếu chỉ nói “trí tuệ” e có lầm lẫn. Ở thế gian người khôn ngoan lanh lợi cũng gọi là người có trí tuệ, thế nên từ ngữa “trí tuệ Bát-nhã” là để giản trạch cho đừng lầm với trí tuệ của người thế gian. Trí tuệ Bát-nhã là trí tuệ thấu hiểu lý thật, thấy được các kiến chấp, trong những cái nhìn thiên lệch chưa thấu đáo. Do thấu được lẽ thật nên trí tuệ này khi đến chỗ cứu kính chẳng những phá được tất cả tà thuyết ngoại đạo mà còn dẹp hết những mê lầm chấp trước của mọi người. Cho nên khả năng công phá đó vượt hơn tất cả, dụ như kim cương là chất cứng nhất có thể phá tan các kim loại khác mà các thứ khác không thể phá hoại được nó. Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật là một trí tuệ vững chắc, kiên cố phá dẹp tất cả tà thuyết ngoại đạo làm cho chúng ta sạch hết những chấp trước sai lầm, những mê mờ đen tối để đến bờ giải thoát, giác ngộ.

Kinh là những lời giảng dạy của đức Phât góp lại thành bộ. Kinh là khế kinh tức là khế lý và khế cơ. Tất cả những kinh Phật đều phải đủ hai nghĩa khế lý, khế cơ, nghĩa là vừa hợp chân lý, vừa hợp căn cơ người. Thiếu một trong hai điều kể trên thì chưa gọi là kinh được, vì chủ yếu của đạo Phật cốt giáo hoá chúng sanh giác ngộ, thấy được lẽ thật (đúng chân lý) và chúng sanh tin nhận được (hợp căn cơ). Khế cơ và khế lý còn có thể hiểu là tuỳ duyên và bất biến. Kinh Phật nói ngàn đời cũng không sai, đó là bất biến; nhưng vào mỗi thời gian theo căn cơ mà nói, hoặc thấp hoặc cao, đó là tuỳ duyên.

Bài viết liên quan

Kinh Kim Cang

Kinh Kim Cang: Tóm tắt

Kinh Kim Cang giảng giải: Tóm tắt …
Kinh Kim Cang

Kinh Kim Cang: Phần I

Kinh Kim Cang giảng giải phần 1: Nguyên do của pháp hội …
Scroll to Top