Trang chủ » Phật giáo » Thiền tông

Thiền tông

Phật giáo có lịch sử phát triển từ lâu đời, tính đến nay cũng đã hơn 2.500 năm. Sau khi Đức Phật tịch diệt, Phật giáo tiếp tục được truyền bá ra khắp thế giới theo nhiều hình thức khác nhau. Với sự mềm dẻo và linh hoạt trong phương pháp truyền dạy nên cho đến ngày nay Phật giáo đã phân ra thành nhiều tông phái khác nhau. Và trong nội dung bài viết này chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về phái Thiền tông.

Thiền tông là gì?

Thiền tông là một trong năm tông phái lớn của Phật giáo trên thế giới. Theo ghi chép trong Kinh sách thì Thiền tông được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc nhờ sự truyền dạy của tổ sư Bồ Đề Đạt Ma. Sau đó tông phái này cũng được truyền bá sang các nước lân cận như: Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản,…

Lịch sử của Thiền tông

Ở sự kiện Niêm Hoa Thị Chúng, Phật Thích Ca đã trực tiếp truyền lại Thiền tông cho Ngài Ca Diếp, đây cũng là vị tổ sư đầu tiên của tông phái này. Mãi cho đến thế kỉ thứ 6 thì Ngài Bồ Đề Đạt Ma – vị tổ sư đời thứ 28 của Thiền tông mới truyền sang Trung Quốc, từ đó mới chính thức hình thành phái Thiền Tông được nhiều người biết đến.

Tương truyền rằng, Ngài Bồ Đề Đạt Ma thuở xưa là con trai út của vua Hương Chí nước Ca-xi ở Ấn Độ, trên Ngài còn có hai người anh. Sau khi vua cha qua đời, Ngài quyết định quy y cửa Phật và nhận Tổ Bát Nhã Đa La làm sư phụ, lấy pháp danh là Đạt Ma.

Theo lời dặn dò của sư phụ, sau 67 năm khi Tổ Bát Nhã Đa La qua đời, Ngài Bồ Đề Đạt Ma khăn gói lên đường đến trung Quốc để hoằng đạo. Điểm đến đầu tiên của Ngài là ở Quảng Đông, lúc Ngài đến Vua nước sở tại là Lương Vũ Đế đã đón tiếp rất chân thành, nhưng vì thấy nhà Vua không có căn khí nên Ngài đã bỏ lên Tung sơn. Khi đến núi Tung sơn, Ngài vào trong một hang động nhỏ và ngồi yên lặng ở đó trong suốt 9 năm.

Một hôm nọ, có một vị sư trẻ tuổi tên là Thần Quang hay tin đang có một bậc siêu phàm đang ở núi Tung sơn liền đến để cầu đạo. Thần Quang quỳ trước hang động 3 ngày 3 đêm, và cuối cùng sự chân thành của vị sư trẻ này cũng nhận được kết quả. Sau đó, Thần Quang được Ngài Bồ Đề Đạt Ma nhận làm đệ tử, lấy pháp danh Huệ Khả – đây cũng là vị tổ sư thứ hai của phái Thiền Tông.

Thiền tông: sự phân chia

Thiền tông được cho là phát triển rất nhanh chóng tại Trung Quốc, và có tất cả năm đời tổ sư. Trong bốn đời tổ sư đầu tiên thì Thiền tông là một khối thống nhất, tuy nhiên đến đời của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn thì đã phân thành hai tông khác nhau là: Thiền Nam tông và Thiền Bắc tông. Sở dĩ điều này xảy ra là do có sự khác biệt trong kiến giác của các môn đồ dẫn đến phương pháp tu tập cũng khác nhau. Minh chứng rõ nhất là khi hai vị đại đệ tử của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn là Huệ Năng và Thần Tú đã trình hai bài kệ mang ý nghĩa trái ngược nhau trong cách kiến giải.

Bài kệ của Ngài Thần Tú cho rằng bản tánh giác ngộ vốn sẵn có ở mỗi người nhưng nó bị lu mờ đi nên cần phải thường xuyên tu tập, ví như một tấm gương khi để lâu ngày thì bụi bẩn sẽ bám vào và không thể phản chiếu được, do đó cần phải “lâu chùi” (tu tập) thường xuyên.

Còn bài kệ của Ngài Huệ Năng thì hoàn toàn ngược lại, Ngài cho rằng bản tánh giác ngộ mặc dù chưa hiển lộ nhưng cũng không hề bị lu mờ, sự giác ngộ là một quá trình diễn ra độc lập và tức thời, chỉ cần người tu tập biết nhìn thẳng vào tự tâm (tâm của mình), đồng thời từ bỏ hết mọi kiến chấp sai lệch thì có thể giác ngộ.

Nhận thấy sự khác biệt trong phương pháp tu tập của hai vị đệ tử, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn quyết định truyền y bát cho Huệ Năng và yêu cầu Ngài lánh về phương Nam một thời gian. Bởi vì Ngũ tổ Hoằng Nhẫn cho rằng phương pháp tu tập của Ngài Huệ Năng quá mới mẻ, sẽ khó được mọi người tiếp nhận trong thời gian ngắn. Sau 15 năm ẩn cư, Ngài Huệ Năng bắt đầu truyền dạy phương pháp tu tập của mình.

Còn Ngài Thần Tú thì về sau trở thành Quốc sư, đã giáo hoá rất nhiều môn đồ ở Phương Bắc theo phương pháp chuyên tâm tu tập.

Về sau, người đời đã phân chia Thiền tông thành hai phái: Nam Năng (Thiền Nam tông – do Huệ Năng truyền dạy), Bắc Tú (Thiền Bắc tông – do Thần Tú truyền dạy).

Quan điểm của Thiền tông

Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” – đây là câu nói thể hiện rõ quan điểm của Thiền tông trong cách tu tập, câu này có nghĩa là không có và cũng không chấp nhận một học thuyết nào vì mọi sự biểu hiện bằng văn tự đều trở thành chướng ngại cho người tu tập. Thiền tông quan niệm rằng các học thuyết chỉ là một phương tiện để phục vụ cho việc tu tập, không nên quá phụ thuộc vào các học thuyết.

Mặc dù vậy Thiền tông cũng có hai bộ kinh văn quan trọng cho người tu tập đó là kinh Lăng Gia (do tổ sư Bồ Đề Đạt Ma mang từ Ấn Độ sang) và kinh Kim cang (bộ kinh giúp Lục tổ Huệ Năng đạt ngộ). Về sau Thiền tông cũng tiếp tục cho ra mắt một số bộ sách khác nữa, trong đó có hai bộ quan trọng gồm: Thiếu Thất lục môn – ghi lại những lời dạy của tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, Pháp Bảo Đàn Kinh – ghi lại những lời dạy của Lục tổ Huệ Năng.

Bài viết liên quan

Các tông phái của Phật giáo

Giới thiệu các tông phái Phật giáo phổ biến

Trong lịch sử hình thành và phát triển, Phật giáo đã phân chia ra rất nhiều tông phái khác nhau, …
Lịch sử ra đời, phất triển của Phật giáo

Lịch sử Phật giáo: sự ra đời và phát triển

Lịch sử Phật giáo: câu chuyện về sự ra đời, phát triển và những thời kì hoại diệt, phục hưng …
Scroll to Top