Trong Phật giáo, có đức Phật A Di Đà hay thường được gọi bằng cái tên là A Di Đà Phật, được tôn kính cũng như được thờ phụng phổ biến tại Việt Nam. Vậy Phật A Di Đà thật sự là ai, sự thật về Ngài là như thế nào? Những thông tin này sẽ được luanhoi.vn giải đáp ngay sau đây.
Sự tích về Phật A Di Đà
Theo kinh Bi Hoa
Thuở xa xưa, vào một đại kiếp gọi là Thiện Trì, cõi nước Tản Đề Lam, có một vị Chuyển luân Thánh Vương là Vua Vô Tránh Niệm, thống trị bốn châu thiên hạ: Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hoá Châu, Bắc Câu Lô Châu.
Vua Vô Tránh Niệm có 32 tướng tốt như Phật, dùng pháp hiền thiện minh triết giáo hoá thống trị quốc dân. Người hành Thập thiện được khen thưởng quí trọng, người hành Thập ác bị trừng phạt bằng tiếng sét như sấm trời, loại người ấy ra khỏi cộng đồng sự sống. Đến khi nhiều người sống Thập ác, Vua Vô Tránh Niệm và triều thần quyến thuộc không xuất hiện nữa, vì ngài không nỡ diệt hết bọn xấu, để cho quy luật nhân quả đủ cơ duyên vận hành dạy cho chúng kinh nghiệm.
Theo luận Câu Xá, quyển 12: Thời Vua Vô Tránh Niệm xuất hiện tuổi thọ nhân loại cao đến tám vạn tuổi, môi trường sinh thái tinh khiết, đất đai mầu mỡ, cây cỏ xinh tươi, vật chất sung mãn. Trong triều đình của Vua Vô Tránh Niệm có quan đại thần Bảo Hải, dòng Phạm Chí rất tinh thông Thiên văn học, mến mộ Phật giáo. Ông có người con trai tướng hảo thông tuệ, khi mới đản sinh được các nhà tôn quí kính tặng nhiều châu báu nên đặt tên là Bảo Tạng.
Bảo Tạng nhận thấy thân tâm thế giới vô thường khổ, nên xin với cha mẹ xuất gia tu Phật. Tu tập tinh chuyên, không bao lâu sau tu sĩ Bảo Tạng chứng quả vô thượng chánh đẳng giác thành Phật hiệu Bảo Tạng Như Lai. Danh thơm tiếng tốt của Phật Bảo Tạng đến tai Vua Vô Tránh Niệm, Vua cũng thỉnh Phật và chư tăng vào vương cung cúng dường trong ba tháng hạ chu đáo.
Lúc bấy giờ quan đại thần Bảo Hải, sau khi nghe pháp chứng thánh quả Tu đà trở thành cư sĩ Bồ Tát, nhân một buổi thiết triều bàn luận quốc sự xong. Tâu với vua Vô Tránh Niệm: “Bệ hạ cúng dường cầu quả phúc nhân thiên mỹ mãn cũng chỉ ở trong tướng vô thường biến đổi như gió thoảng mây tan. Do túc nghiệp tu phúc huệ hữu lậu đời trước nay được quả vị tôn quí không ai sánh kịp, thuận tiện giúp đời khôn sáng, cơm no, áo ấm nhưng chiều sâu tâm lý bệ hạ và thần dân vẫn bất an vì sanh lão bịnh tử khổ. Chi bằng phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo Kiến tạo nước Phật thì hạnh phúc cho toàn dân biết mấy“.
Vua Vô Tránh Niệm nghe qua đẹp ý, thu xếp việc triều chính, đến vườn Diêm Phù Đàn cúng dường Phật tăng thính pháp. Đến nơi thấy Bảo Tạng Như Lai nhập định phóng quang sáng suốt, soi rõ mười phương thế giới Tịnh Độ của chư Phật cho chúng hội chiêm bái. Đồng thời, Vua Vô Tránh Niệm cũng nhập chúng, xét thấy nhân dân của mình sắc thân không ngời sáng như dân Phật, trí tuệ cũng kém hơn, quốc độ đền đài cung điện thô thiển bằng cây đá chạm trổ. Trong khi đó cung điện xứ Phật làm bằng bảy báu lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não, san hô, hổ phách… Đặc biệt không có cõi Phật nào có dân nghèo khó, bệnh viện, nghĩa địa.
Chiều đến quan đại thần Bảo Hải từ tạ Vua về dinh thự riêng, Vua Vô Tránh Niệm hồi cung suốt đêm không ngủ hồi tưởng tư duy, suy xét rút tinh tuý các nước Phật làm thành đại nguyện xây dựng nước Phật cho mình. Sáng sớm, vua đến lễ bái Phật Bảo Tạng xin chứng minh đại nguyện Bồ Đề, dù trăm ngàn kiếp khổ khó thực hiện quyết không thối chí. Ngài phát 48 lời đại nguyện.
Đức Phật A Di Đà, kiếp trước là con của Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Ngài nhờ công đức thường giảng kinh Pháp Hoa cho chúng sinh nghe nên thành Phật hiệu là A Di Đà, ở cõi Tây phương Cực lạc. Muốn cho chúng sanh cõi này vượt khỏi kiếp lầm than của những cái khổ sinh, lão, bệnh, tử nên Đức Phật Thích Ca nói rõ nhân địa hạnh nguyện của Phật A Di Đà. Đồng thời, khai thị pháp môn Tịnh độ tu hành rất dễ dàng. Từ thượng lưu trí thức đến hạng dân thường, nếu ai chuyên tu, cũng đều được vãng sinh cả.
Theo kinh A Di Đà
Từ thời rất xa xưa, có một vị quốc vương tên là Kiều Thị Ca. Sau khi nghe theo một vị Phật thuyết Pháp, liền từ bỏ ngôi vị của mình và bắt đầu tu hành, lấy hiệu là Pháp Tạng.
Được truyền cảm hứng từ những lời dạy của Đức Phật Lokesvaraja, Đức Phật A Di Đà đã phát ra 48 lời thề nguyện để cứu độ chúng sinh. Trong đó, có lời thề nguyện thứ 18 cũng chính là nền tảng của trường phát Tịnh Độ: “Nếu sau khi đạt được chứng Phật quả, tất cả chúng sanh khát khao thành thực và đức tin để được tái sinh trong mảnh đất của tôi, nếu niệm tên tôi 10 lần mà không được sinh ra ở đó, thì tôi không thể đạt được giác ngộ hoàn hảo.“
Sau 5 năm tu luyện, cuối cùng Người cũng được giác ngộ tối cao và thành Phật A Di Đà. Điều này có nghĩa là lời thệ nguyện từ bi và vĩ đại của Ngài giờ đây đã được thành hiện thực. Thế giới tịnh hóa mà Ngài mong muốn cũng chính là cõi Tây Phương Cực Lạc cũng đã được thiết lập, đau khổ của chúng sinh cũng sẽ được giải thoát khi họ có đức tin để gọi tên Ngài.
Tiền thân của đức Phật A Di Đà
Theo lời dạy của Phật Thích Ca, Đức Phật A Di Đà đã thành Phật cách đây mười ức kiếp, hiện là giáo chủ cõi Cực Lạc phía Tây thế giới Ta Bà. Ngài có hạnh nguyện là tiếp độ tất cả chúng sanh trong mười phương pháp giới, nếu người nào có lòng ưa thích muốn được sanh về thế giới của Ngài. Đức Phật A Di Đà trước khi duyên thành chánh quả chánh giác giữ ngôi pháp vương ở Cực Lạc thế giới, Ngài cũng có nhân địa của Ngài: vua Vô Tránh Niệm thời kỳ Phật Bảo Tạng, vương tử Thắng Công Đức trong pháp hội Phật bảo công đức, Bồ-Tát Sa Di con trai của đức Đại Thông Chí Thắng Phật.
12 danh hiệu
Kinh A Di Đà chép rằng, đức Phật ấy vì sao có danh hiệu là Phật A Di Đà. Này Xá-lợi-phất, đức Phật ấy có hào quang vô lượng chiếu sáng khắp cõi nước trong mười phương, không gì có thể ngăn Ngài được nên có danh hiệu là A Di Đà. Lại cũng có chép rằng thọ mạng của đức Phật ấy cùng với nhân dân trong cõi nước là vô lượng vô biên, a-tăng-kỳ kiếp nên có danh hiệu là Phật A Di Đà.
Trong kinh Phật thuyết Vô Lượng Thọ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nói Ngài A-nan-đà: “đức Phật A Di Đà có oai thần quang minh tối tôn đệ nhất, quang minh chư Phật không sánh kịp vì thế đức Phật A Di Đà còn có 12 danh hiệu riêng.“:
- Vô Lượng Quang Như Lai – tu pháp vô lượng, lúc nào cũng tu.
- Thanh Tịnh Quang Như Lai – tu tất cả đều phải thanh tịnh.
- Trí Huệ Quang Như Lai – phải có trí huệ, giải trừ tham sân.
- Hoan Hỷ Quang Như Lai – tu pháp hỷ xả, từ bi.
- Diệm Vương Quang Như Lai – núi cao khó đến, khó vượt vẫn qua.
- Vô Ngại Quang Như Lai – tu pháp không lo ngại, không nghi ngờ.
- Siêu Nhựt Nguyệt Quang Như Lai – mặt trời có thể tối, mặt trăng có thể che khuất nhưng tâm tánh không bao giờ lu mờ.
- Nan Tu Quang Nhu Lai – tu gặp khó khăn cũng vượt qua.
- Vô Đối Quang Như Lai – tu pháp không chống trái, không đối lập.
- Vô Biên Quang Như Lai – tu pháp vô biên, không nơi nào không tu.
- Vô Xưng Quang Như Lai – không xưng danh, không cầu hình thức.
- Bất Đoạn Quang Như Lai – tu không xen tạp, không gián đoạn.
Trên đây là 12 danh hiệu nói về các công đức trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, nếu đem kể thì đến ngàn kiếp cũng không cùng tận.
Ý nghĩa tâm linh của Phật A Di Đà
Phật là hiện thân của an lành, của những điều tốt đẹp. Phật A Di Đà giúp con người thoát khỏi những khốn khổ, cùng cực trong cuộc sống để con người hướng về những điều thiện nhân, phúc lành. Thờ Phật A Di Đà trong nhà để cầu mong sự an bình, sức khoẻ, tai qua nạn khỏi. Trong quan niệm của cõi Niết-bàn thì đời là bể khổ, nhưng khi con người thấu hiểu chân lý, được đức Phật dẫn dắt tránh xa tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, lục dục của Trần thế thì sẽ tự giác ngộ và sống một cuộc sống thanh tịnh, yên bình.
Phật A Di Đà là một vị Phật lớn trong Phật giáo, là giáo chủ của thế giới Cực Lạc Phương Tây, đại diện cho những giá trị tốt đẹp của quá khứ, đây cũng là yếu tố nền móng để con người nhìn lại và hướng về tương lai tốt đẹp hơn. Nếu ai từng nghe những bài thuyết giảng của Phật giáo, hiểu về đạo Phật thì tâm trí khi căng thẳng, mệt mỏi, thiếu tập trung, lúc đó bạn có thể tụng kinh Phật sẽ giúp cho tâm thanh tịnh, tăng cường sự tập trung và dũng khí.
Tây Phương Cực Lạc (cõi Tịnh Độ)
Trong các phiên bản của kinh điển được biết đến rộng rãi ở Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản, lời nguyện thứ 18 của đức Phật A Di Đà đã nói rằng: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.“, và lời nguyện thứ 19 của đức Phật A Di Đà đã nói rằng: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát tâm Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặt họ. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.“. Sự cở mở này và nguyện chấp nhận tất cả mọi giống loài đã làm cho niềm tin Tịnh độ là một trong những ảnh hưởng quan trọng của Phật giáo Đại thừa.
Các kinh điển tiếp tục giải thích rằng, Phật A Di Đà sau khi tích luỹ công đức vĩ đại qua vô số kiếp cuối cùng đạt được Phật quả và vẫn còn sống trong khu đất của mình, nới đó được gọi là cõi Tây Phương Cực Lạc – nơi tuyệt đẹp, tràn ngập niềm vui và hạnh phúc. Các học thuyết cơ bản liên quan đến Phật A Di Đà và lời thề nguyện của Ngài được tìm thấy trong kinh Vô Lượng Thọ. Thông qua những nỗ lực của mình, Phật A Di Đà đã tạo ra cõi Tịnh Độ (tiếngTrung: Jìngtũzõng; tiếng Nhật: Jõdo bukkvõk).
Cõi Tịnh Độ nằm ở phía Tây vượt ra ngoài ngoài giới hạn của thế giới chúng ta. Bằng sức mạnh của lời thề nguyện của mình, Phật A Di Đà đã làm cho tất cả những ai cầu khẩn ngài được tái sinh vào vùng đất này và họ sẽ trải qua hướng dẫn tâm pháp để cuối cùng trở thành những vị Bồ-Tát mục tiêu tối hậu của Phật giáo Đại thừa, từ đó các vị Bồ-Tát cũng quay trở lại thế giới để giúp nhiều người hơn.
Phật A Di Đà có phải là Phật Tổ không?
Những thắc mắc về một số người vẫn còn đang cho rằng Phật A Di Đà và Phật Tổ là một, tuy nhiên thực chất Phật A Di Đà không phải là Phật Tổ. Phật A Di Đà được tôn sùng nhiều nhất trong Phật giáo Đại thừa, tên của người mang ý nghĩa ánh sáng vô lượng và thọ mạng vô lượng, là giáo chủ cõi Tây Phương Cực Lạc. Còn Phật Tổ hay còn gọi là Phật Thích Ca Mâu Ni là người sáng lập ra đạo Phật và là bậc giáo chủ của cõi Ta Bà – là Trái Đất nơi con người đang sinh sống.

Chúng ta có thể phân biệt hai vị Phật này thông qua hình dáng tượng của từng vị. Cụ thể, Phật A Di Đà trước ngực có chữ vạn (卐), trong khi trước ngực của Phật Tổ thì không có.
Ngày vía đức Phật A Di Đà
Ngày đức Phật A Di Đà đảng sinh là ngày 17/11 âm lịch, đây kỳ thật là ngày sinh của Vĩnh Minh Viên Thọ Đại sư – tương truyền là đấng tái sinh của đức Phật A Di Đà.
Thần chú
Phiên âm tiếng Tây Tạng: Om Ami Dewa Hri (cách đọc: Ôm A-mi Đê-goa Ri)
Phiên âm tiếng Ấn Độ: Om Amitabha Hrih (cách đọc: Ôm A-mi-ta-ba Ri)
Phiên âm tiếng Nhật: On Amirita Teizei Kara Un (cách đọc: On A-mi-ri-ta Tê-kê Ka-ra Un)
Bằng cách độc niệm thần chú A Di Đà thì sáu loại phiền não sẽ được thanh lộc và phẩm chất của các đức hạnh tốt sẽ phát triể, trí tuệ và từ bi của chúng ta sẽ gia tăng, do đó sự bám víu sẽ bị tiêu trừ dần dần. Nhiều Phật tử gọi tên đức Phật A Di Đà trong một thực hành gọi là niệm Phật (nam mô A Di Đà Phật) ở Việt Nam với mong muốn được Phật gia hộ cho bản thân, gia đình nhiều bình an.
Bài viết liên quan
Vị Phật đầu tiên ở Việt Nam là ai?
Phật Di Lặc: Biểu tượng của sự an lạc và hạnh phúc
5 Vị Phật Tối Cao: Biểu Tượng Của Trí Tuệ Vô Biên
Khám phá Tây Phương Cực Lạc – Vùng đất thanh tịnh