Định nghĩa
Tất cả những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm nhận, nghĩ và biết hoàn toàn mang “tính không“. Vậy tính không là gì? Vạn vật đều do nhân duyên hợp thành thì sẽ sinh, nhân duyên tiêu tan thì sẽ diệt. Tính không nghĩa là vạn vật không có tự tính, chứ không phải là không tồn tại.
Ví dụ: nếu nói chiếc ghế là một vật có tính không thì chúng ta không nên hiểu chiếc ghế không tồn tại, mà sự có mặt của nó là do nhiều yếu tố (sắt, gỗ, đinh,…) kết hợp mà nên. Đây là sự kết hợp giữa nhân và duyên nên nếu có vấn đề ở bất nhân duyên nào ở đây (vd: chân ghế bị gãy) thì sự kết hợp này (chiếc ghế) sẽ không còn nữa.
Theo định nghĩa của ngài Long Thụ (Nāgārjuna, người sáng lập Trung quán tông) thì tính không không phải chỉ là một sự trống không thuần tuý, hay phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại. Tính không nên được hiểu trong ý nghĩa là bản chất phụ thuộc lẫn nhau của thực tại: “Chính vì có nguồn gốc duyên khởi mà sự vật hoàn toàn không có sự tồn tại độc lập“.
Nhưng tại sao con người chúng ta lại cho rằng vạn vật có tính chân thật? Bởi vì chúng ta luôn hiểu thế giới bằng thói quen của cá nhân và tập thể, ta đã gắn kết, gắn mác lên mọi sự vật tính chân thực. Cái thói quen này nó mạnh mẽ đến mức khiến cho chúng ta không hề quan tâm đến tính không, vì thế mà hầu hết mọi người không ai muốn theo đuổi sự giác ngộ.
Có thể nói tính không là một học thuyết rất quan trọng và chuyên sâu của Phật giáo. Một khi đã thấu triệt về tính không chúng ta sẽ hiểu rõ về bản chất của thực tại, không còn mê muội như trước đây nữa. Vì vậy càng hiểu biết sâu sắc về tính không thì năng lực nội quán của ta càng mạnh mẽ, từ đó thấy rõ sự lừa dối của các cảm xúc, và hệ quả là các cảm xúc đó càng trở nên yếu ớt hơn.
Giảng giải
Khi nói về tính không trong Phật giáo, rõ ràng ta đang nói tới sự vắng mặt của một điều gì đó, tức là một dạng phủ định. Tương tự, lý thuyết vô ngã (không có cái “tôi”) cũng là một dạng phủ định. Tại sao phải nhấn mạnh vào sự phủ định như vậy? Cùng xem xét ví dụ sau đây.
Giả sử tôi có một nỗi sợ hãi xuất phát từ sự hoài nghi rằng đang có một mối đe dọa nào đó gần kề. Nếu tôi nghĩ rằng có lẽ mình đã nhầm lẫn, rằng đó có thể chỉ là sự phóng đại, thì dẫu cho sự sợ hãi của tôi có giảm bớt nhưng sẽ không hoàn toàn bị xua tan. Nhưng thay vì vậy, tôi lại nghĩ rằng điều đó dứt khoát chỉ là ảo giác, rằng không có bất cứ điều gì ở đó cả, và nếu sự phủ nhận của tôi là tuyệt đối như vậy thì dĩ nhiên nó sẽ có một tác động tức thì xua tan đi nỗi sợ hãi của tôi.
Câu hỏi đặt ra ở đây là: nếu sự thật đúng như vậy thì điều gì thật sự bị phủ nhận? Cái gì là sự trống không của cái gì?
Dựa theo kinh điển thì sự trống không trong ví dụ này là sự vắng mặt đối tượng của sự phủ định, mà trong trường hợp này là đối tượng của sự sợ hãi. Tuy nhiên, điều này không giải thích trọn vẹn các sự việc, nên ta phải tiến xa hơn nữa và cố gắng để hiểu được đối tượng của sự phủ định thật ra là gì.
Điểm then chốt của vấn đề này thật sự nằm ở cách hiểu của chúng ta về ý nghĩa của tự ngã trong bối cảnh vô ngã. Tùy theo sự diễn dịch về mặt triết lý của mỗi người đối với giáo pháp vô ngã của đức Phật sẽ có những khác biệt trong cách xác định điều gì bị phủ nhận ở đây.
Kinh điển Phật giáo trình bày rất nhiều mức độ vi tế khác nhau trong việc nhận diện tự ngã như là một đối tượng của phủ định. Chẳng hạn, trên một cấp độ thì tự ngã được nhận diện như là một tự thể có thật, một linh hồn tồn tại trong mỗi chúng ta, và như vậy, trong bối cảnh này thì vô ngã có nghĩa là sự phủ nhận một tự thể có thật và tồn tại độc lập, hay linh hồn vĩnh cửu.
Cách hiểu của trường phái Trung quán y tự khởi về tính không. Theo phái này thì cho dù mọi sự vật hiện hữu như là kết quả của các nhân duyên, và cho dù trạng thái của mọi sự vật đang hiện hữu xét theo một nghĩa nào đó là phụ thuộc vào sự nhận thức của chúng ta, thế nhưng sự vật và hiện tượng vẫn có một tính chất tự hữu nhất định. Theo trường phái này thì điều phủ định là sự cố chấp rằng các đối tượng tồn tại độc lập với nhận thức, và chính nhận thức này đã tạo nên cách hiểu của họ về tính không.
Tuy nhiên, theo quan điểm của trường phái Trung quán cụ duyên thì đó không phải là ý nghĩa rốt ráo Phật dạy về vô ngã. Theo quan điểm này, khi ta chưa xóa bỏ hoàn toàn ý kiến cho rằng sự vật và hiện tượng có thể có một kiểu tính chất tự hữu bất kì nào đó, thì ta vẫn còn nắm bắt sự vật như là có thật, như thể là chúng có một kiểu trạng thái không phụ thuộc nào đó. Do đó, phái này phủ nhận sự tồn tại tính tự hữu và cá biệt của sự vật và hiện tượng, và cho rằng đây mới là ý nghĩa chân thật của tính không.
Bất chấp những sự khác biệt này, điểm chung của các trường phái trên là quan tâm nhấn mạnh rằng, trong khi tiến hành một cách đúng đắn việc đối trị với sự chấp ngã, thì điểm quan trọng là phải chắc chắn rằng sự phủ định của ta không đi ngược lại với thực tế của thế giới theo tục đế – thế giới của kinh nghiệm sống.
Như vậy, tính không không phải chỉ một sự trống không thuần túy, hay phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại. Tính không nên được hiểu trong ý nghĩa là bản chất phụ thuộc lẫn nhau của thực tại, nghĩa là: chính vì có nguồn gốc duyên khởi mà sự vật hoàn toàn không có sự tồn tại độc lập. Một điểm quan trọng khi nói về tính không đó là chúng ta nên tránh khỏi cực biên của chủ nghĩa tuyệt đối và chủ nghĩa hư vô.
Ý nghĩa
Sở dĩ việc hiểu rõ về học thuyết tính không là rất quan trọng bởi vì nó gắn liền với việc nhận hiểu những kinh nghiệm cá nhân của chính chúng ta trong đời sống. Khi cảm xúc mạnh mẽ khởi lên trong bạn, chẳng hạn như là sự luyến ái hay sân hận, nếu bạn xem xét kinh nghiệp về cảm xúc đó, bạn sẽ thấy phía sau cảm xúc này đó là một sự mặc nhiên chấp nhận rằng có một cái gì đó là khách quan và thật có ở bên ngoài, và bạn đang bám chấp vào đó, rồi sinh khởi những phẩm tính khát khao hoặc không ưa thích đối với nó. Tùy theo loại phẩm tính mà bạn sinh khởi đối với sự vật hay hiện tượng, bạn sẽ cảm thấy bị cuốn hút hay muốn tránh né. Vì thế, những đáp ứng cảm xúc mạnh mẽ thật ra là thừa nhận sự tồn tại một dạng nào đó của thực tại khách quan.
Tuy nhiên, nếu bạn nhận chân rằng các sự vật và hiện tượng không hề có tự tính tự hữu, thì chắc chắn điều này sẽ tự nhiên giúp bạn hiểu rằng, cho dù những cảm xúc có vẻ như rất thật và mạnh mẽ đến đâu, chúng cũng không hề dựa trên một nền tảng xác thật. Một khi bạn biết rằng những cảm xúc thật sự dựa trên ý niệm sai lầm cơ bản về thực tại, thì tự chúng sẽ trở nên không thể duy trì. Mặt khác, nếu bạn chưa thấu triệt về tính không, theo nghĩa là chưa loại trừ được hoàn toàn ý niệm về tính tự hữu, thì tất nhiên là cách nhìn nhận cảm xúc của bạn sẽ có phần không dứt khoát, và bạn có thể cảm thấy là theo một ý nghĩa nào đó thì cảm xúc vẫn là hợp lý hay thỏa đáng.
Khi bạn đã phát triển một hiểu biết nhất định về tính không, cho dù chỉ là một sự hiểu biết dựa vào lý trí, bạn sẽ có một cách nhìn mới về sự vật, hiện tượng và bạn có thể so sánh điều này với các phản ứng thông thường của mình. Bạn sẽ nhận biết được khuynh hướng hình dung hóa những phẩm tính đối với thế giới bên ngoài của chúng ta nhiều đến mức nào. Đặc biệt hơn, bạn sẽ nhận ra rằng hầu hết các cảm xúc mạnh mẽ của ta đều khởi lên từ sự thừa nhận tính thật hữu của một sự vật nào đố vốn là không thật. Bằng cách này, bạn có thể đạt tới tri giác kinh nghiệp về sự khác biệt giữa cách mà bạn nhận thức sự vật với cách mà sự vật thực sự hiện hữu.
Bài học mà ta có thể rút ra từ tất cả các điều trên là các cảm xúc mạnh mẽ gây phiền não trong tâm ta khởi lên từ một trạng thái sai lầm cơ bản (vô minh), và điều này khiến cho ta nhận hiểu sự vật như là thật có và tồn tại một cách độc lập. Tóm lại, ta biết rằng các cảm xúc và ý tưởng gây đau khổ không có nền tảng xác thật, không những trong kinh nghiệm của ta mà cả trong thực tại, và cả trong lý luận.
Bài viết liên quan
Tứ Diệu Đế: 4 chân lý cao quý của Phật giáo.
Phiền não là gì? 30 loại phiền não phổ biến