Có thể bạn chưa biết, tại Việt Nam cũng từng xuất hiện một vị Phật. Dẫu cho Ngài không được thường xuyên nhắc đến trong lịch sử Phật giáo giống như Phật Thích Ca Mâu Ni hay Phật Di Lặc. Tuy nhiên trong lòng các Phật tử của Phật giáo Việt Nam Ngài luôn có một vị trí quan trọng. Ngài chính là sơ tổ Trúc Lâm – Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Đôi nét về Phật hoàng Trần Nhân Tông
Phật hoàng Trần Nhân Tông tên khai sinh là Trần Khâm, sinh vào ngày 7 tháng 12 năm 1258, mất ngày 16 tháng 12 năm 1308. Ngài là con cả của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh, sinh tại hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (ngày nay là phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định). Lúc sinh thành Ngài có một tướng mạo phi phàm, nước da màu vàng khác người nên Vua cha và ông nội còn gọi Ngài là Phật Kim.
Từ lúc còn nhỏ Phật hoàng Trần Nhân Tông đã không thích sống trong cung điện, không thích gấm lụa hay các thú vui của nhân gian, vậy nên có lần Ngài đã quyết định trốn lên núi Yên Tử nhưng không thành. Ngài được phong làm Hoàng Thái Tử vào năm 1274 và bốn năm sau thì lên ngôi Hoàng Đế, tự xưng Hiếu Hoàng và là vị vua thứ ba của nhà Trần nước Đại Việt.

Trong thời gian trị vị của mình Phật hoàng Trần Nhân Tông đã ra sức xây dựng xã tắc mang lại đời sống no đủ cho muôn dân. Đặc biệt với tài mưu lược sáng suốt Ngài đã mang lại chiến thắng oai hùng trong hai cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông (1285, 1287-1288).
Sau nhiều năm làm Vua và cảm thấy đất nước đã yên ổn nên vào năm 1293 Ngài quyết định nhường ngôi cho con trai của mình là Trần Anh Tông. Đến năm 1299 thì Ngài đến núi Yên Tử, quyết định xuất gia để chuyên tâm tu tập, lấy pháp danh là Hương Vân Đại Đầu Đà.
Thực hiện tâm nguyện
Tại núi Yên Tử, Phật hoàng Trần Nhân Tông chuyên tâm tu tập theo thập nhị đầu đà (mười hai điều khổ hạnh), sau đó Ngài sáng lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử bằng cách hợp nhất ba dòng thiền khác là Tì-ni-đa-lưu-chi, Thảo Đường và Vô Ngôn Thông. Để thuận lợi trong việc truyền dạy Ngài cho xây chùa, cất tịnh xá để học chúng đến tu học.
Với tâm nguyện độ sinh cao cả, Ngài quyết định đến chùa Phổ Minh ở Phủ Thiên Trường (nay thuộc tỉnh Nam Định) lập giảng đường và giảng dạy ở đây trong nhiều năm. Tiếp tục như vậy Ngài đến trại Bố Chính và lập am Tri Kiến (nay thuộc tỉnh Quảng Bình) để thuyết pháp cho dân chúng nơi đây. Sau đó Ngài cũng được vua Trần Anh Tông thỉnh vào cung để thuyết pháp cho văn võ bá quan.
Những năm cuối đời
Năm 1307, Phật hoàng Trần Nhân Tông quyết định truyền Y Bát lại cho Tôn giả Pháp Loa, còn mình thì sẽ chuyên tâm vào việc ghi chép Kinh sách để thế hệ sau có thể dựa vào đó mà tu học. Những tài liệu quý báu mà Ngài đã để lại ví như: Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Tăng già toái sự, Thạch thất mỵ ngữ, Đại hương hải ấn thi tập, Trần Nhân Tông thi tập, Trung Hưng thực lục,…

Ngài nhập diệt vào ngày 01 tháng 11 năm 1308 tại Đông Triều, Quảng Ninh, thọ mạng 51 năm. Vua Trần Anh Tông đã cung thỉnh nhục thân Ngài về kinh đô Thăng Long để cử hành Quốc Tang, sau đó cho dựng hai pho tượng vàng của Ngài đặt tại chùa Vân Yên và chùa Báo Ân.
Tổng kết
Như vậy chúng ta đã biết vị Phật đầu tiên ở Việt Nam đó là Phật hoàng Trần Nhân Tông. Sau khi xuất gia tại núi Yên Tử, Ngài đã dành hết thời gian còn lại của mình đi khắp nơi để thuyết pháp, dạy mọi người bỏ ác làm lành. Điều này đủ để chứng minh vì sao Ngài luôn là một vị Phật giữ một vị trí quan trọng trong lòng chúng ta.
Bài viết liên quan